Chủ Nhật, 6 tháng 11, 2016

Võ sư Nguyễn Văn Dũng: "Võ đường là một trường học"

Mãi cho đến năm 2008, khi võ sư Nguyễn Văn Dũng, người sáng lập võ đường Nghĩa Dũng ở Huế cho xuất bản tập bút ký "Linh Sơn mây trắng"- kết quả của những chuyến "lãng du tâm hồn" và "lãng du văn hoá" vòng quanh thế giới "thênh thang bằng đôi hia bảy dặm", thiên hạ mới biết, hoá ra cái ông Dũng suốt ngày cùng đám đệ tử võ vẽ ấy lại còn viết.
Võ Sư Nguyễn Văn Dũng

    Và mới đây (cuối năm 2012), ông lại tiếp tục cho ra đời tập ký thứ hai "Đi tìm ngọn núi thiêng" được nhiều bạn đọc đánh giá cao về chất lượng. Dường như ông cũng là một hình ảnh của cụm từ "văn võ song toàn". Và cũng như không nhiều "hiện thân" khác mà tôi may mắn được gặp, ông Dũng cũng bắt đầu lập thân bằng chữ nghĩa.

    Ông kể "thời trung học tôi thích môn văn. Sau khi tốt nghiệp phổ thông năm 1962, tôi thi vào khoa Văn trường Đại học Sư phạm - Huế. Năm 1965, tốt nghiệp đại học, tôi được bổ nhiệm giảng dạy môn Văn lần lượt tại các trường Trần Quốc Tuấn (Quảng Ngãi), Gia Hội (Huế), Quốc Học (Huế) và nhiều trường tư thục khác". Ông thú nhận: "Ngày trước thi thoảng cũng có làm thơ, viết văn, cộng tác với một số tờ báo, nhưng không nổi bật".

    Nghiệp võ đến với ông muộn hơn nhưng khá lạ: "Năm 1963, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, đang đêm, một nhóm học trò cũ của thầy tôi (là một linh mục) xông vào nhà thờ, đánh đập, hành hạ thầy. Khi tôi đứng ra binh vực thầy thì bị bốn tay cầm đầu vây đánh cho một trận. Buổi chiều, trước bạn bè và người thân, tôi chỉ tay lên trời thề "sẽ đi học võ để hạ từng thằng một trả mối thù này"... Lúc đầu tôi học võ cổ truyền với bạn, mãi đến tháng 3 năm 1967 mới chuyển sang học Karate. Gặp chân sư, tôi miệt mài khổ luyện. Đến năm 1972, khi đã có thể thực hiện lời thề cũ thì tôi nhận ra: Tự nâng lên mình cao hơn kẻ thù, tha thứ cho kẻ thù, cũng là một cách trả thù. Và thế là tôi tha thứ cho họ. Hiện nay, họ là một trong số những người bạn thân thiết của tôi. Khi không còn bị thúc đẩy bởi động cơ tầm thường, càng tập luyện tôi càng nhận ra cái hay cái đẹp của võ thuật nói chung và của Karate nói riêng; thế là tôi theo đuổi Karate cho đến bây giờ".

    Một võ sư và một võ sư có văn, sự khác nhau có lớn không?  

    - Người đời hiểu văn và võ là hai khái niệm đối lập nhau. Nhưng xét cho cùng thì không phải thế. Văn và võ đều là một hình thái của văn hoá; và khi đạt đến đỉnh cao của nó thì văn và võ là một. Cả hai đều nhằm đạt đến cõi tự tại, tự giác; tâm hồn thanh lãng, an lạc trong mối quan hệ nhân ái với con người, cuộc đời và thiên nhiên, vạn vật. 

    Có lần ngồi cà phê với ông, tôi nhận xét đại ý rằng theo hiểu biết của tôi, võ đường Nghĩa Dũng của ông có một điều rất đặc biệt so với nhiều võ đường khác: Nó không chỉ là nơi dạy quyền cước đơn thuần mà còn một trường học theo gần như đúng nghĩa của từ này. Hệ thống võ đường Nghĩa Dũng của ông đã góp phần cho xã hội nhận thức lại, xoá đi phần nào định kiến về hai chữ "võ biền". Và trường học của ông trong mấy chục năm qua đã cho ra đời hàng vạn võ sinh, phần lớn trong số họ là những người thành công cả văn lẫn võ giống như thầy mình…

    Ông bảo cần xác định lại điều này: Võ không phải là một môn thể thao thuần tuý mà là môn thể thao truyền thống. Một vài biểu hiện của sự khác nhau đó là: Người dạy thể thao được gọi là huấn luyện viên, người dạy võ được gọi là thầy. Nơi tập luyện thể thao gọi là Câu lạc bộ hay Trung tâm huấn luyện, nơi tập võ gọi là Võ đường hay Đạo đường - người Nhật gọi nơi tập võ là Dojo (Jo là nơi, Do là đạo đức - là nơi rèn luyện đạo đức). Nhiệm vụ của thể thao là nhanh hơn, xa hơn, mạnh hơn; nhiệm vụ của võ là chiến thắng chính mình. Mục đích của thể thao là tranh giành huy chương, mục đích của võ là hoàn thiện mình... Do đó, dù với bất cứ môn võ nào, võ đường luôn là một trường học. Nếu có khác nhau thì đó là sự khác nhau giữa đậm nhạt, nặng nhẹ; bắt nguồn từ sự khác nhau giữa các vị thầy; giữa hệ thống lý luận, nội dung chương trình, quy trình, phương pháp, tổ chức thực hiện...

    Ông nói: Là do các  môn sinh của tôi xác định rất rõ học võ không phải để thi thố cơ bắp hay tranh giành huy chương, mà là để có sức khoẻ, chăm học và học giỏi; rằng học võ cho thật giỏi để không bao giờ dùng đến võ... Nhờ thế môn sinh của tôi chủ yếu là học sinh và sinh viên, là con ngoan trò giỏi; nhiều em ra đời là bác sĩ, kỹ sư, kiến trúc sư, luật sư, tiến sĩ, giáo sư, nhà báo, nhà giáo, doanh nhân, quan chức... Tôi luôn luôn tự hào về những người học trò của mình".

    Vậy ngoài quyền cước, võ đạo, ông đã dạy thêm cho võ sinh của mình những điều gì?

    Trước hết tôi dạy cho các em cái Lễ, vốn là yếu tố giúp người ta sống với nhau cho tử tế hơn, văn minh lịch sự hơn. Đơn giản thôi, tôi bắt các em luôn luôn thuộc bốn từ sau: Xin chào, Xin cám ơn, Xin vui lòng, Xin lỗi. Đó chính là bốn từ mà ở các nước văn minh hiện đại, người ta dùng hàng ngày trong các mối quan hệ. Trong thời đại giao lưu hội nhập, nếu không cùng tần số thì làm sao chúng ta có thể sống và làm ăn với họ?

    Tôi cũng dạy cho các em hiểu mình, tự tin, khả năng tập trung tinh thần, có ý chí vượt khó, có tinh thần ham học hỏi, kỷ luật, đoàn kết, nhân ái, yêu thương, tôn trọng người khác, có hoài bão, có bản lĩnh để không bị lôi cuốn bởi những cám dỗ tầm thường… Tất cả, không phải bằng con đường rao giảng đạo đức khô khan, mà bằng quá trình rèn luyện trong một "lò" luyện cực kỳ nghiêm khắc. Ví dụ: Bài tập đứng tấn, hít đất, kiểm tra chuyên cần và thi lên đai... giúp hun đúc nơi các em tính kiên trì. Bài tập tham thiền, giúp các em năng lực tập trung tinh thần. Bài tập đấu luyện và song đấu tự do giúp các em hiểu mình hơn và tự tin hơn. Mỗi tháng mỗi em đóng góp 2 lon gạo cho người nghèo, giúp hình thành lòng trắc ẩn, lòng nhân ái và trách nhiệm với cộng đồng… 

    Nhắc đến chuyện võ đường - trường học, có lần ông trải lòng: Ông Karl Marx nói "Con người là mối tổng hoà của các quan hệ xã hội": Tố chất tiên thiên, gia đình, học đường, xã hội, bạn bè, hội đoàn, sách báo, phim ảnh... và võ chỉ là một trong những yếu tố đó. Võ sẽ phát huy tác dụng tốt khi các yếu tố kia không trở thành yếu tố tiêu cực tác động đến người tập. Và ngược lại. Mong muốn của tôi là thế nhưng trong mấy chục năm qua, đã có người đi ngược lại định hướng của thầy. Họ nặng phần múa may huê dạng, đề cao cá nhân, chạy theo hư danh, nhằm mục đích thương mại… Trước đây, tôi cũng có hơi buồn, nhưng giờ chín chắn hơn, tôi nhận ra đó là lẽ thường tình - mười ngón tay tất có ngón ngắn ngón dài. Chỉ mong sao họ không rơi vào vòng hư đốn và vi phạm luật pháp. 

    Lời ông làm tôi nhớ đến lời của Lý Tiểu Long - một thần tượng của tôi trong "Đi tìm ngọn núi thiêng" vừa xuất bản: "Có vẻ như anh quá coi trọng yếu tố chiến đấu và chiến thắng đối thủ. Đã nhiều lần anh khẳng định: "Võ thuật trên thực tế chỉ đơn giản là nghệ thuật chiến đấu…Nói rõ hơn, là một nghệ thuật giành thắng lợi trong chiến đấu". Tôi đồng ý với anh nếu đứng trên bình diện võ nghệ và với góc độ của một đấu sĩ. Nhưng trên bình diện võ đạo và với góc độ của một võ phái thì chiến đấu không phải là mục đích cuối cùng, nó chỉ là cánh cửa đưa ta đến mục đích cuối cùng. Mục đích cuối cùng của người tập võ phải là đạt tới cõi tự tại, tự giác…; tâm hồn thanh lãng, an lạc trong các mối quan hệ nhân ái với con người, cuộc đời và thiên nhiên, vạn vật. Cũng đừng quên, cuộc chiến đấu với bản thân mình là vô cùng quan trọng trong quá trình hoàn thiện nhân cách và nâng cao chất lượng cuộc sống. Ai không chiến thắng nổi mình thì mọi chiến thắng với kẻ địch bên ngoài chỉ là vô nghĩa…".

    Hay: "Dưới bàn tay nhào nặn của anh, phim trở thành luận đề về niềm kiêu hãnh giống nòi, và thể hiện cái ngã của anh. Nhiều cảnh trong phim hết sức chướng, ví dụ: Anh, một mình hiên ngang, kiêu bạc, đánh cho hàng trăm tên võ sĩ Nhật lên bờ xuống bụi, nhục nhã ê chề…(Và) điều đáng tiếc là nhiều thanh thiếu niên xem phim, bắt chước thần tượng của họ, cũng luyện võ, múa côn, khệnh khạng ta đây. Không ít kẻ lao vào các cuộc ẩu đả, những tưởng mãnh hổ có thể địch quần hồ, để rồi phải chết trong vòng dao búa trước khi nhận ra võ trong phim và võ ngoài đời khác nhau biết chừng nào". 

    Đó là sự tìm về điểm xuất phát (nghiệp văn) đã bị võ đạo làm cho dang dở hay vẫn là phương tiện để chuyển tải những thông điệp về "Đạo" như nhận xét của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường?

    Một thời gian dài trên bục giảng tôi cầm viên phấn, một thời gian dài trong võ đường tôi múa côn, luyện quyền; hơn mười năm trở lại đây, được đi qua nhiều nơi trên thế giới, tôi cầm cây viết. Nhưng dù cầm viên phấn, cầm cây côn, hay cầm cây viết, trước sau tôi vẫn là một thầy giáo, để làm nhiệm vụ của một người thầy giáo. Đó là giúp người học hiểu rõ mình hơn, hiểu thế giới chung quanh hơn; nhân ái, công bằng, và cao thượng hơn; ăn ở với nhau cho tử tế hơn... Tôi đồng ý với nhận xét của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, rằng tôi viết văn không phải để trở thành nhà văn, mà để chuyển tải thông điệp về "Đạo" - đạo làm người.
    Võ sư Nguyễn Văn Dũng sinh năm 1941 tại làng Mỹ Á, xã Vinh Hải, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Năm 1965, ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, trở thành thầy giáo dạy văn. Năm 1972, kiêm thêm danh hiệu võ sư. Năm 1975, ông làm hiệu trưởng trường cấp 3 Gia Hội. Năm 1978, thành lập Phân đường Nghĩa Dũng Karate-Do. Năm 1989, là cán bộ thanh tra sở Giáo dục Đào tạo TT-Huế. Năm 1995, là Trưởng tràng Hệ phái Suzucho Karate-Do Việt Nam. Năm 1997, sáng lập viên trường Đại học Phú Xuân, phụ trách Chủ nhiệm Bộ môn Giáo dục Thể chất và Quốc phòng. Mới đây, ông xin nghỉ hưu ở tuổi… 70, để tập trung tâm sức cho công việc dạy võ và dạy người.

    Võ sư Nguyễn Văn Dũng nói về: Đạo võ - Đạo người

    Võ Sư Phan Tọ nói " học võ dễ như cách ta làm ruộng hằng ngày”

    “Học võ dễ như cách ta làm ruộng hằng ngày”

    Võ sư Phan Thọ, người tinh thông thập bát ban binh khí trường phái Tây Sơn võ thuật đạo, nổi tiếng với câu nói: “Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh”, được giới võ thuật mệnh danh là huyền thoại làng võ Bình Định.
    Võ sư Phan Thọ.
    Trước khi qua đời, tôi có dịp gặp mặt và được ông chỉ bảo về một vài thế võ ứng dụng hằng ngày thường gặp. Bóp cổ, nắm áo, giật đồ, đâm, chém… là những tình huống hằng ngày chúng ta vẫn gặp. Khi gặp tôi Võ sư Phan Thọ đã 88 tuổi nhưng ông vẫn còn quắt thước và nhanh nhẹn lắm. Chỉ một động tác tránh đòn sau đó là một thế triệt ông đã loại bỏ hết sức mạnh của một chàng trai to lớn mạnh khỏe như tôi.
    Khi được hỏi tại sao tuổi đã xế chiều rồi nhưng ông vẫn có thể hóa giải các tình huống đơn giản đến vậy ông chỉ nói gọn lỏn ba từ “quen tay thôi”. Chỉ ba từ nhưng hàm chứa rất nhiều ẩn ý của vị võ sư đại thụ làng võ Bình Định bấy giờ.
    Khi tôi vẫn còn mơ hồ chưa hiểu hết ý đồ của ông thì ông nhìn tôi cười và trải lòng một cách chân chất:“Nghe nói võ thì ai cũng nghĩ nó là cái gì đó ghê gớm lắm, nhưng thật ra nó giống như việc hằng ngày ta đi làm ruộng, quét nhà vậy. Phàm những công việc hằng ngày đều ẩn chứa bên trong là các phản xạ tạo ra các thế võ mà ta không hề biết đó thôi.”
    “Chẳng hạn như cuốc đất thì trong võ là đòn bổ từ trên xuống, giật cuốc kéo ra sau tạo thành thế đâm sau, khi đất dính nhiều ta lại hắt qua một bên để đập cho ra đất thì tạo thành thế đỡ, thế cản hai bên, vung cuốc vác lên vai tạo thành thế bổ ra sau…anh thấy đấy có gì ghê gớm đâu? Chẳng qua ta làm nhiều lần lâu dần thành thói quen tới khi có chuyện bất ngờ quơ tay trúng thế thì đó là võ”. Nói xong ông cười rất sản khoái.
    Thật vậy những thói quen công việc hằng ngày tưởng chừng như vô hại ấy dần dần hình thành nên các phản xạ tự nhiên có điều kiện, để khi có biến thì tự dưng biến thành công cụ bảo vệ cuộc sống con người.
    Khi xưa các bậc tiền nhân trước khi dạy cho các môn đệ của mình một bài quyền nào đó họ thường dạy các thế võ ứng dụng trong bài quyền, sau khi đã thuần thục các thao tác thì mới tổng hợp hệ thống lại các thế võ tạo thành một bài quyền. Chính vì lẽ đó mà những cái tên như Bừa cào, Câu liêm, Roi, Đinh ba, Thiết phiến… là những vật dụng thường ngày mà các bậc võ nhân xưa kia hay sử dụng.
    Võ sư Phan Thọ biểu diễn một thế võ cổ truyền.
    Ngày nay trong thời đại kinh tế thị trường, cùng với sự năng động của thời đại. Cùng với đó là lối sống xô bồ, bon chen, thích thể hiện của không ít cá nhân đang là vấn đề nhức nhối của xã hội. Đôi lức ta không tránh khỏi những va chạm bất ngờ không lường trước, việc giữ trong mình một vài “ngón nghề” nào đó là điều cần thiết.
    Võ thuật không phải là cái gì đó quá xa lạ, cao siêu đối với chúng ta mà nó rất gần gũi, bình dân và thân thiết lắm. Từng bước chạy, nhảy, ném, đẩy hằng ngày đó chính là bộ pháp, cước pháp, thủ pháp, thân pháp đấy thôi. Việc quan trọng là biến chúng thành một phản xạ để khi cần thì sử dụng hợp lý là được. ví dụ khi người ta tấn công thì ta chạy, người ta đánh dưới thì mình nhảy lên, đối phương ở xa thì mình ném, lại gần thì đẩy ra …
    Tuy là vậy nhưng để có được những phản xạ như vậy là cả một quá trình khổ luyện về Thần, Khí, Lực, Nhãn… điều này thì không phải ai cũng có. Bản chất con người từ khi sinh ra và lớn lên có những giai đoạn thay đổi nhất định và Võ thuật cũng vậy lúc thịnh lúc suy, lúc phù hợp với tình huống này, khi lại không phù hợp với tình huống kia. “Học võ không khó, khó hay không là chúng ta có thực sự quen tay hay không”.